TOP 11 CHIẾC XE CỔ STATION WAGON - VANG BÓNG VÀ XẤU SỐ

Tác giả: Vương Ngọc Thắng Ngày đăng: 25/06/2021

Thập niên với sự hiện diện trùm tài phiệt của Gordon Gekko, Ferris Bueller và"Danger Zone" mở ra nhiều điều hữu ích, từ đĩa mềm vi tính đầu tiên cho nhân loại cho đến công nghệ phun nhiên liệu cho công nghiệp ô tô. Kết thúc thập niên 80 xuất sắc của thế kỷ trước này không chỉ đánh dấu chấm hết cho nhân vật hoạt hình nổi tiếng Care Bears mà còn cả với xe dòng xe wagon gia đình cỡ lớn. 

Buick Roadmaster ra mắt vào năm 1991 đã được coi là hoài cổ vào thời điểm nó được bán ra thị trường và hoàn toàn được mặc định là “vua” của phân khúc nay đã biến mất này. Dưới đây là 11 mẫu xe đã từng “cai trị” trên đường phố trong những năm “cuối đời” của station wagon.

Peugeot 504

Được sản xuất từ năm 1970 đến năm 1983, Peugeot 504 station wagon là chiếc xe mang về lợi nhuận chủ yếu cho thương hiệu này tại Mỹ cho đến khi xuất hiện 505. Được cung cấp với một loạt các động cơ xăng bốn và sáu xi-lanh, cùng với một động cơ diesel, 504 kết hợp một khoang hành lý rộng rãi với nội thất ấm cúng và tiện dụng. Chiếc 504 là xe station wagon kỳ quặc của châu Âu ở Mỹ với đối thủ cạnh tranh gần nhất của nó là Volvo 145 và 245. Volvo 245 “đánh cắp” rất nhiều doanh thu của Peugeot và thương hiệu này không bao giờ thực sự thâm nhập vào một số vùng của Mỹ như Volvo. Chiếc 504 vẫn là một xe của vùng bờ biển; ngoài miền bắc, miền nam California và hành lang phía đông bắc, khó có thể tìm thấy 504 ở khu vực nào khác.  

AMC Eagle

Eagle, cùng với một số dịch vụ của AMC đáng nhớ khác, là một chiếc xe đình đám từ khi ra mắt. AMC Eagle được hãng AMC (American Motors Corporation) sản xuất từ năm 1979 đến năm 1987. Eagle có thể được coi là tiền nhiệm của loại xe mà sau này gọi là SUV. Được giới thiệu vào tháng 8 năm 1979 cho mô hình năm 1980, AMC Eagle station wagon được phát triển dựa trên nền tảng công nghệ có tên là AMC Concord. AMC Eagle đóng vai trò mở ra một phân khúc bom tấn sau này mặc dù nó được bán ra vào thời điểm không ai muốn mua một chiếc station wagon dẫn động 4 bánh. Chỉ có một công ty khác sản xuất xe sedan và station wagon dẫn động 4 bánh tại thời điểm đó là Subaru, nhưng AMC có nguồn lực kỹ thuật của Jeep và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển chiếc xe “tiền thân” crossover này. Eagle trở nên phổ biến ở các tiểu bang miền núi, mặc dù tình trạng gỉ sét nặng làm hư hỏng nhiều xe. Danh mục động cơ của Eagle khá phong phú, từ động cơ 4,2 lít sáu xi lanh thẳng hàng cho đến động cơ diesel và động cơ xăng 4 xi lanh.

Renault Medallion

Một trong những xe có doanh số bán hàng ngoạn mục nhất của những năm 1980 là Renault Medallion. Medallion là phiên bản phong cách sửa đổi của Renault 21 và được mang đến Mỹ qua cuộc hôn nhân giữa hãng xe Pháp và AMC. Ngay khi Medallion được bán ra thị trường, liên minh Renault AMC tan vỡ, Chrysler tiếp quản việc nhập khẩu Medallion vào Mỹ. Trước khi Chrysler chèn huy hiệu Eagle trên Medallion để cố gắng xoay chuyển tình huống, vài trăm chiếc Medallion đã được nhập khẩu vào Hoa Kỳ với nhãn Renault, nhưng cũng chỉ một phần nhỏ của dự án. Đại lý Chrysler và Jeep sau đó đã không biết phải làm gì với Medallion hoặc làm thế nào để bán chúng. Medallion không phải là một chiếc xe tệ nhưng điều kiện khách quan đã khiến việc chào mời khách hàng sở hữu một Renault hay Eagle Medallion trở nên khó khăn.

Buick Skyhawk

Buick đã có một thời gian dài tự hào với truyền thống sản xuất xe station wagon, nhưng các cuộc khủng hoảng khí đốt liên tiếp của thập niên 1970  cũng như các yếu tố khác đã buộc công ty phải chuyển sang sản xuất xe nhỏ hơn. Kể từ khi chi nhánh Chevrolet có Vega, Buick đã không đặt nhiều nỗ lực vào Skyhawk thế hệ đầu tiên. Nhưng thế hệ thứ hai của Skyhawk, được ra mắt vào năm 1982, có nền tảng thân vỏ J chia sẻ với các Olds Firenza và Chevy Cavalier. Động cơ 1,8 lít và 2,0 lít nằm trong danh mục động cơ của Skyhawk, trong đó động cơ bốn xi-lanh nhỏ nhất chỉ sản xuất 88 mã lực. 

Như với nhiều xe ô tô khác trong những năm 80, Skyhawk đã được hình thành trong những ngày đen tối nhất của thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Cùng với Cimarron của Cadillac, Skyhawk kéo thương hiệu hạng sang của GM tới hồi kết.

Peugeot 505

Được sản xuất từ năm 1979 đến năm 1992, 505 là chiếc xe cuối cùng của thương hiệu Peugeot ở thời kỳ khủng hoảng tại Mỹ, nó “chiến đấu” khá ngoan cường cho đến khi đối thủ Volvo giới thiệu 3 mẫu xe wagon vào cuối năm 1980. Peugeot 505 tung ra một loạt động cơ ấn tượng, phiên bản SW8 chiều dài cơ sở kéo dài có nội thất rộng rãi cho 8 người.  

Peugeot 505 về cơ bản vẫn giúp thương hiệu Pháp duy trì tại các tiểu bang và là một giải pháp thay thế hợp lý cho xe nội địa Mỹ (trang bị động cơ V8 với công suất lớn), đồng thời cung cấp không gian rộng rãi hơn wagon Nhật. Khi 405 wagon ra mắt vào năm 1989, nó đã đánh dấu chấm hết cho thương hiệu Pháp ở thị trường Mỹ, mặc dù doanh số bán hàng của 505 còn tiếp tục cho đến năm 1992.

Renault 18i Sportswagon

Dán nhãn Sportswagon cho thị trường Mỹ, Renault 18i đã được bán tại đây thông qua liên minh Renault-AMC. Khẩu hiệu chào bán Renault 18i Sportswagon tại thời điểm đó là "Không chỉ là tiết kiệm". Sửa đổi cho thị trường Mỹ bao gồm kiểm soát khí thải nghiêm ngặt hơn, cản lớn được thiết kế để chịu được tác động va chạm ở tốc độ 8km/h, sơn hai tông màu, đèn pha hàn kín, nắp vành và trang trí nội thất khác biệt.  
Động cơ 1,6 lít 4 xi lanh thẳng hàng, một trong những động cơ nhỏ nhất trong danh mục, có mức tiêu thụ nhiên liệu kết hợp 9,4L/100km và 6,2L/100km trên đường cao tốc. 18i có thể là một chiếc xe hạng trung ở châu Âu, nhưng theo tiêu chuẩn của Mỹ thì nó khá nhỏ gọn, do đó không gian vận chuyển hàng hóa không phải là một điểm hấp dẫn, đặc biệt là so với Volvo 245. Đó là lý do tại sao khó có thể tìm thấy một chiếc Sportswagon ngay cả trong số các thành viên của câu lạc bộ Renault Mỹ.

Mercury Colony Park

Colony Park ra mắt vào năm 1979 và là xe cuối cùng của dòng wagon kích thước đầy đủ trong danh mục sản phẩm của Ford và Mercury. Xét về doanh số, năm 1985 là năm bán hàng tốt nhất của Colony Park khi Mercury bán được 14.000 chiếc, nhưng doanh số bán hàng đã giảm xuống chỉ còn vài ngàn năm 1990. Mô hình cuối cùng là năm 1991, như vậy mẫu xe này cũng đã kéo dài suốt 3 thập kỷ và 4 đời tổng thống.

Datsun / Nissan Sentra

Hiện vẫn còn rất nhiều Nissan Sentra thế hệ B13 làm tắc nghẽn các bãi đỗ xe của Mỹ, nhưng ít người nhớ rằng thế hệ đầu tiên của Nissan Sentra đã đến Mỹ vào năm 1982 và có sẵn phiên bản station wagon. Và đó là một trong những xe Nissan mang đồng thời nhãn hiệu Datsun và Nissan.

Dòng sản phẩm Sentra thay thế Datsun 210 già cỗi và đã là một thành công tại Mỹ ngay từ đầu. Lựa chọn động cơ bao gồm 1,5 lít và 1,6 lít, động cơ nhỏ hơn chỉ sản xuất 67 mã lực. Một động cơ diesel cũng có trong danh mục mặc dù nó không phải là lựa chọn phổ biến. Thế hệ kế tiếp B12 có phiên bản wagon nhưng khi Sentra thế hệ B13 lăn ra khỏi dây chuyền sản xuất khoảng năm 1990 thì mô hình station wagon đã không còn nữa.

Toyota Cressida

Trước khi Toyota Camry cám dỗ đa số người mua xe, Toyota đã cung cấp cho thị trường một mẫu xe wagon cỡ lớn trức đó vài năm. Mô hình Cressida ra mắt vào năm 1985 mang phong cách mạnh mẽ nhưng kém quyến rũ hơn so với phiên bản Cressida wagon từ những năm 1970. Nhưng nó vẫn là một chiếc xe sang trọng với động cơ 2,8 lít 6 xi lanh và nội thất rất hiện đại sở hữu tất cả mọi thứ từ điều khiển hành trình tự động, tay lái có bộ nhớ tầm lái và “đèn pha khí động học của châu Âu”. 

Thế hệ này của Cressida khá ngắn ngủi – bản wagon bị ngừng sản xuất trong năm 1987 và mô hình mới ra mắt năm 1988 chỉ có bản sedan. Đáng buồn thay, Toyota đã “khai tử” Cressida sau mô hình thế hệ thứ sáu lại Mỹ trong năm 1992, nhưng trước đó cái tên Cressida đã rất phổ biến với tầng lớp quý tộc Anh trong một thời gian ngắn.

Volkswagen Quantum

Mẫu xe hạng trung này đã được bán dưới tên gọi Passat và Santana ở các thị trường khác trên thế giới, nhưng khách hàng Hoa Kỳ bắt đầu nhận được Quantum vào năm 1982. Phiên bản cao cấp nhất là GL5 (số 5 là chỉ số lượng xi lanh). Chiếc xe là một cải tiến vững chắc so với dòng sản phẩm Dasher, nhưng động cơ 2,1 lít 5 xi lanh thẳng hàng chỉ sản sinh 100 mã lực. Nội thất đơn giản và nhựa màu xám nhàm chán khiến cho Quantum khó có thể so sánh với xe wagon nội địa trang bị động cơ V8 mạnh mẽ với nội thất gỗ sang trọng. Thực tế này khiến Quantum ế ẩm và kết thúc “quãng đời” vào năm 1988.

Audi 5000

Con số luôn luôn rất quan trọng trong danh pháp mô hình - đó là một cách mà các nhà sản xuất ô tô vượt lên nhau. Và các số như 100 hay 200 sẽ không gây ấn tượng với bất cứ ai khi Pontiac có 2000 và 6000. Trước khi có hãng nào khác cướp mất, Audi đã nhanh chóng đăng ký lấy số 5000 cho dòng xe sedan hạng trung và wagon tại thị trường Mỹ.

Chiếc xe thế hệ C2 của năm 1970 đã được cung cấp như một hatchback năm cửa, nhưng bắt đầu với thế hệ C3 năm 1982, một station wagon chính hãng năm cửa đã sẵn sàng. Mặc dù có vẻ ngoài vuông vức nhưng 5000 tự hào có hệ số cản thấp. Động cơ có dung tích dao động từ 1,8 lít 4 xi lanh đến 2,5 lít tăng áp 5 xi lanh. Phiên bản 200 Quattro là cao cấp nhất nhưng chỉ tồn tại khoảng 3 năm với doanh số tương đối nhỏ.

Bạn đang xem: TOP 11 CHIẾC XE CỔ STATION WAGON - VANG BÓNG VÀ XẤU SỐ
Bài trước Bài sau
VIẾT BÌNH LUẬN CỦA BẠN

Địa chỉ email của bạn sẽ được bảo mật. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

popup

Số lượng:

Tổng tiền:

hotline

Hotline

hotline

Hỗ trợ

zalo

Zalo

zalo

Đại lý

hotline

Hotline

hotline

Hỗ trợ

zalo

Zalo

zalo

Đại lý